Quyển một: Chỉ vừa gặp gỡ đã quen nhau
Chúng ta thường chuyển từ một sàn nhảy náo nhiệt này sang một sân khấu tịch mịch kia, diễn tới diễn lui, chẳng qua một mình bạn, chẳng qua một mình tôi. Dưới quang âm sâu lắng, nói mấy câu sáng tối tròn khuyết, uống một chén trà đậm nhạt nóng nguội.
Người sống trên đời rốt cuộc là vì điều gì? Những lúc hoang mang túng quẫn, chúng ta luôn kìm lòng chẳng đặng hỏi bản thân như thế. Nhàn du chốn nhân gian là vì sứ mệnh riêng tư của mỗi cá nhân, là vì một tín ngưỡng không thể nói ra, hay vẻn vẹn chỉ là một kiểu tồn tại giản đơn? Đời người mỗi bước đều là ván cờ, người bố trí bàn cờ rốt cuộc là ai, bạn và tôi đều không cách gì biết được. Chúng ta thường chuyển từ một sàn nhảy náo nhiệt này sang một sân khấu tịch mịch kia, diễn tới diễn lui, chẳng qua một mình bạn, chẳng qua một mình tôi. Dưới quang âm sâu lắng, nói mấy câu sáng tối tròn khuyết, uống một chén trà đậm nhạt nóng nguội.
Nhân gian này, phong trần nhất, mênh mang nhất, cũng vô tình nhất, rõ ràng đã cho chúng ta góc khuất nương thân, lòng lại không chốn ở yên. Chúng ta vẫn một lòng tình nguyện trăn trở giữa cõi trần, non một chặng, nước một chặng, đeo hành trang tìm đến phương xa, vì mộng tưởng trong lòng. Chúng sinh vạn tướng, tâm tình khác nhau, tạo ngộ đời người khác nhau, nơi chốn hướng về cũng khác nhau. Có người si mê bờ nước Giang Nam[1], trăng lạnh hoa mai thanh tao, có người tham luyến gió cát đại mạc, đìu hiu sông Dịch[2] thê lương. Có người thích mơ một giấc mộng ẩm ướt dưới nếp nhà cũ, có người lại nguyện ý rời phố xa quê, đi tìm câu chuyện nhân quả chôn giấu trong hoang nguyên.
[1] Giang Nam: tên gọi trong văn hóa Trung Quốc chỉ vùng đất nằm về phía nam Trường Giang. Vùng đất Giang Nam thay đổi theo thời gian, hiện được cho là bao gồm thành phố Thượng Hải, phía nam của tỉnh Giang Tô và tỉnh An Huy, phía bắc của tỉnh Giang Tây và tỉnh Chiết Giang, khu vực quanh hồ Động Đình. Một số khu vực của tỉnh Phúc Kiến đôi khi cũng được tính là thuộc vùng Giang Nam.
[2] Sông Dịch: một con sông ở phía tây tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Kinh Kha đi hành thích vua Tần, Thái tử Đan nước Yên tiễn biệt tại đây.
Mỗi người đều có quê hương thuộc về mình, có quê hương từ nhỏ sinh ra và lớn lên, cũng có quê hương của tâm linh. Quê hương chân thực, có lẽ là non xanh nước biếc, cầu đá liễu rủ, nhà gỗ bình yên. Quê hương của nội tâm, có lẽ là bụi vàng đường cổ, bão tuyết cao nguyên, gió dài lồng lộng. Chúng ta đều là những người bình thường nhất, nhưng vì mộng tưởng khác thường trong lòng, lại cam nguyện làm một lữ khách phiêu bạt chân trời, phóng khoáng vẫy chào quê nhà, đi đánh thức nền văn hóa đã trầm mặc ngàn năm trên mảnh đất xa xưa mà thần bí ấy.
Tây Tạng, nơi ấy cách bầu trời rất gần, cách giấc mơ rất xa, những năm gần đây, vì mảnh đất thần diệu này, biết bao người đã dấn bước trên lộ trình dằng dặc dọc đường gió bụi. Chẳng mấy chốc, cao nguyên hoang vu mênh mông đã trở thành quê hương mà vô số kẻ lãng du hồn mơ lòng nhớ. Nhiều người đối với chân trời xa xăm này đều bội phần xa lạ, thậm chí chẳng biết máy bay, nhưng vẫn nhất mực tình sâu đem linh hồn tá túc tại đây. Chắc chắn là có thứ gì đó khiến chúng ta mê mẩn không rời, có lẽ là bí mật thần kỳ chôn giấu nơi đất Tạng, là kinh phướn phấp phới tỏ rõ luân hồi[3], là lời nguyền đến từ văn minh viễn cổ.
[3] Luân hồi (samsāra) chỉ những đời sống tiếp nối nhau, trạng thái bị luân chuyển của một loài hữu tình khi chưa đạt giải thoát, chứng ngộ Niết Bàn.
Có những người không nề hà muôn dặm rong ruổi đến đây, chỉ để múc một hũ nước thánh của hồ Thanh Hải[4], chỉ để ngắm một thoáng mặt trời lặn trên cung Potala[5], chỉ để bước trùng lên dấu chân công chúa Văn Thành[6] năm xưa, chỉ để ngâm nga một bài thơ của Tsangyang Gyatso, cũng để tận mắt nhìn thấy một lần mục dân lùa ngựa cừu từ đồng cỏ này sang đồng cỏ khác, tiếp nối câu chuyện này với câu chuyện khác. Hoặc là quan sát một lần thiên táng, xem chim điêu rỉa sạch thi thể, một thân xác chớp mắt đã biến mất, cả chiếc áo xanh cũng chẳng đem đi được. Tất cả chúng sinh đều có tính Phật, kiếp này thành Phật, là vì siêu độ khổ nạn của chúng sinh.
[4] Hồ Thanh Hải hay hồ KokoNor là hồ lớn nhất Trung Quốc và là hồ nước mặn lớn thứ hai thế giới sau hồ Muối Lớn ở Mỹ. Hồ nằm ở độ cao 3.205m - 3.260m trên bồn địa của cao nguyên Tây Tạng, cách thành phố Tây Ninh, thủ phủ tỉnh Thanh Hải khoảng 100km về phía Tây.
[5] Cung Potala nằm ở thành phố Lhasa, Khu tự trị Tây Tạng, Trung Quốc, đã là nơi ở của Đạt Lai Lạt Ma cho đến khi Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 chạy sang Dharamsala, Ấn Độ vào năm 1959. Ngày nay, cung Potala là một viện bảo tàng, một địa điểm thu hút khách tham quan nổi tiếng, đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới. “Potala” là dịch âm từ tiếng Phạn, có nghĩa là “thánh địa Phật giáo”.
[6] Công chúa Văn Thành (623-680): cháu gái vua Đường Thái Tông, hoàng hậu thứ hai của vua Thổ Phồn Songtsän Gampo, là một đệ tử Phật giáo, cùng với công chúa Nepal Bhrikuti Devi - hoàng hậu thứ nhất của Songtsän Gampo, được cho là những người đã đưa Phật giáo vào Tây Tạng.
Suốt dọc đường, nhìn thấy người Tạng áo quần lam lũ quỳ gối rạp mình đi về phía trước, trong ánh mắt chứa đầy kiên định không thể lung lay. Họ lựa chọn dùng phương thức thành kính này để đi hết hành trình xa xôi, vì niềm tin trong lòng, vì tìm kiếm kiếp trước trong mơ. Tất cả những ai đi qua bên họ đều sẽ cảm động đến đầm đìa nước mắt, cũng muốn vì họ gánh vác chút gì đó, nhưng lại bất lực biết bao. Nhiều người đến đều là để bái yết sinh mệnh, đến cung Potala, tiếp nhận lễ rửa tội thánh khiết nhất. Một mảng bầu trời xanh thẳm ấy, có chim ưng dang cánh chao liệng, mây trôi tản mác, với tay chạm được.
Theo đuổi một giấc mộng, có lẽ chỉ cần dăm ba năm, tìm kiếm một người, rốt cuộc phải mất thời gian bao lâu? Núi tuyết yên tịnh dựa sát vào nhau trên cao nguyên, hồ thánh hắt bóng trên những đỉnh núi trắng tinh. Ở nơi này, có cách tang[7] nở hoa, cỏ lác đung đưa trong gió; ở nơi này, tình yêu của chúng ta sao mà giản đơn, chỉ vì tình cờ gặp gỡ một đôi mắt linh dương Tạng. Năm tháng luân chuyển, vương triều đổi chủ, bao nhiêu gió mưa nghiệp bá đều âm thầm chôn vùi trong sông dài lịch sử, người và việc có thể khiến chúng ta ghi nhớ lác đác như sao buổi sớm. Mà mảnh đất này, vĩnh viễn không bị quấy nhiễu, biết bao người muốn vén tấm mạng che mặt thần bí dưới màn sương mỏng kia, lại phát giác hóa ra miền đất xem chừng cằn cỗi này lại màu mỡ như vậy. Mặc cho năm tháng vùi dập tuổi tác, sự đời sớm đã đổi thay hoàn toàn, một cỏ một cây, một bụi một cát ở đây đều không hề suy suyển.
[7] Cách tang: một loài hoa sinh trưởng trên cao nguyên, thuộc họ thúy cúc. “Cách tang” tiếng Tạng nghĩa là hạnh phúc, người Tạng xem đây là loài hoa thánh khiết tượng trưng cho tình yêu và may mắn.
Khói lửa ở đây rất thưa thớt, chúng ta đều từ nơi hồng trần sâu nhất đến đất Tạng, đặt xuống tất cả tôn quý và vinh hoa của trần thế, cũng mang đến nhiều bụi đất lẫn lộn và tâm sự ngổn ngang. Núi mây muôn dặm, trăng lạnh gió rét, dù nhiều người không thể thích ứng hoàn cảnh tự nhiên nơi này, nhưng đã chọn đến đây, đều dự định cùng sống chết với đồng hoang đất tuyết ở đây. Trên thực tế, chúng ta đều hiểu rõ, trèo đèo lội suối như vậy, sốt ruột đi gấp, là vì tìm kiếm một con người, một cái tên, một bài thơ tình. Chỉ là trên đời này có nhiều việc không cho phép bạn và tôi dễ dàng nói toạc ra, số mệnh có quá nhiều chân lý huyền diệu không thể tìm hiểu thấu đáo. Dường như vì những huyền cơ này, vạn vật mới có lý do để con người tìm đến ngọn nguồn.
Ở Tây Tạng có nhiều vị Đạt Lai Lạt Ma[8] chuyển thế như vậy, vì sao người chúng ta ghi nhớ cứ là Tsangyang Gyatso? Có lẽ những ai từng đến đây và chưa từng đến đây đều hiểu rõ, đó là vì Ngài là một vị tình tăng, một vị tình tăng khiến tâm hồn con người rung động. Thơ tình của Ngài cũng là hoa tình, rải khắp trên mảnh đất hoang vu này, khiến muôn hoa nảy nở, tình duyên bền chặt. Điều chúng ta khó quên có lẽ không phải là thân thế biết bao truyền kỳ của vị linh đồng chuyển thế này, không phải là tầm cao Thần Phật khi Ngài được chúng sinh quỳ lễ mà là nỗi quyến luyến sâu sắc đối với hồng trần và vấn vương không dứt đối với tình yêu của Ngài. Chúng ta cảm động rơi lệ vì thơ tình của Tsangyang Gyatso, những bài thơ tình viết đã ba trăm năm, cũng đã hát suốt ba trăm năm.
[8] Đạt Lai Lạt Ma (Dalai Lama): là danh hiệu của nhà lãnh đạo tinh thần của Phật giáo Tây Tạng thuộc phái Gelug. “Đạt Lai” có gốc từ tiếng Mông Cổ nghĩa là “biển cả”; “Lạt Ma” là từ tiếng Tạng được dịch từ tiếng Phạn “guru”, là từ xưng hô dành cho các vị Đạo sư. “Đạt Lai Lạt Ma” có nghĩa là “Đạo sư với trí tuệ như biển cả”. Danh hiệu Đạt Lai Lạt Ma cũng được hiểu là Hộ tín (Người bảo vệ đức tin), Huệ hải (Biển lớn của trí tuệ), Pháp vương (Vua của Chánh Pháp), Như ý châu (Viên bảo châu như ý)… Danh hiệu Đạt Lai Lạt Ma được vua Mông Cổ Altan Khan phong cho phương trượng của phái Gelug vào năm 1578. Người Tây Tạng xem Đạt Lai Lạt Ma là hiện thân của Quán Thế Âm. Mỗi một vị Đạt Lai Lạt Ma được xem là tái sinh của vị trước.
Năm tháng vô tình, thời gian càng dài, nhiều chương tiết của lịch sử đều bị sửa đổi. Năm tháng cũng hữu tình, nó làm người đưa thư cho thời gian, gửi đến câu chuyện của ba trăm năm trước. Đối mặt với tình cảm, bất kể lòng dạ sắt đá đến đâu cũng sẽ biến thành mềm yếu, vì thế những ai từng đọc thơ tình của Tsangyang Gyatso đều sẽ sa vào biển tình cuồn cuộn, khó tự thoát ra. Nhà viết kịch thời Minh Thang Hiến Tổ[9] từng viết trong vở Đình Mẫu Đơn[10]:“Người như Đỗ Lệ Nương, quả có thể nói là người có tình vậy. Tình không biết bắt đầu từ đâu, một mực sâu đậm, lúc sống có thể vì tình mà chết, chết rồi lại có thể vì tình mà sống. Sống không nguyện ý chết vì tình, chết mà không thể sống lại, đều chẳng phải là chí tình.” Chúng ta đều là người sống vì tình, chết vì tình, dù không cắt đứt được danh lợi, không vứt bỏ được vinh hoa, nhưng vẫn bất cẩn chìm đắm trong sông tình, trả giá nặng nề cho cú sẩy chân của mình.
[9] Thang Hiến Tổ (1550-1616): nhà văn, nhà biên kịch nổi tiếng của Trung Quốc vào cuối thời nhà Minh, người Lâm Xuyên, Giang Tây.
[10] Đình Mẫu Đơn: còn có tên là Hoàn hồn ký, sáng tác năm 1598, sau khi Thang Hiến Tổ từ quan về Lâm Xuyên. Nội dung miêu tả thiếu nữ Đỗ Lệ Nương và thư sinh Liễu Mộng Mai gặp gỡ trong mộng, sau đó Lệ Nương tìm lại giấc mộng không được, ốm tương tư mà chết. Liễu Mộng Mai sau đó đào mộ Lệ Nương lên, Lệ Nương sống lại, cùng Mộng Mai sum vầy hạnh phúc.
Ngắm tháp Phật đối xứng nơi xa, không biết là vị cao tăng nào vì kiếp trước của mình xây tháp và thề nguyện ở đây. Chúng ta chẳng phải cao tăng, không vì tu hành, không vì truy vấn đời trước lại tràn đầy hiếu kỳ và nhung nhớ đối với nơi này. Có lẽ chúng ta định sẵn chỉ là khách qua đường, không cho nổi mảnh đất này bất cứ hứa hẹn nào, nhưng cũng không cần dò hỏi nhân quả hợp tan. Nếu thật sự có thể tìm được nhân duyên kiếp trước, thế thì chuyến đi này không hối tiếc, xin Đức Phật phong ấn tôi ở đường cổ A Lạp xa xăm, vĩnh viễn không trở về.
Xem tiếp:
>> Gặp Lại Chốn Hồng Trần Sâu Nhất - Chương 3
0 comments :
Post a Comment