Chương 17: Tái hiện vụ đâm xe
“Có muốn vào chơi không?” Liêu Á Phàm nghiêng đầu, nháy mắt làm thân với thằng bé.
Thằng bé gắng gượng lắc đầu, Liêu Á Phàm cười, đưa tay xoa đầu nó. Thằng bé thẳng người lên, như muốn tận hưởng sự mềm mại của bàn tay trên đỉnh đầu.
“Có đói không?”
Thằng bé không trả lời, chỉ cười ngượng nghịu, dùng ngón tay khều khều gỉ sắt trên mặt lan can.
“Em đợi nhé!” Nói xong, Liêu Á Phàm quay người vượt qua vườn rau, đi vào ngôi nhà nhỏ hai tầng của Thiên sứ Đường. Trong bếp vẫn còn thừa bánh bao nhân rau bữa trưa. Liêu Á Phàm lấy mấy cái trong nồi hấp, thấy vẫn còn nong nóng, vừa quay người định đi ra thì chị Triệu từ ngoài đi vào.
“Làm gì đấy?” Chị Triệu xắn tay áo, hỏi bâng quơ.
“Không có gì đâu ạ.” Liêu Á Phàm giấu tay ra phía sau, chạy nhanh ra ngoài.
Ở cuối hành lang, thầy Châu đang dựa vào cửa sổ hút thuốc, khói thuốc bay lượn quanh người ông. Ông nhìn bất động ra ngoài cửa sổ, dưới ánh chiều trông ông giống như một bức tranh cắt hình. Liêu Á Phàm đứng nguyên tại chỗ nhìn một lúc, bất giác cảm thấy thương cảm.
Nếu như đó là một bức tranh cắt hình thật thì nên đặt tên cho nó là: Đau buồn.
Bên lan can bây giờ không phải chỉ có một mình thằng bé, nó đang thích thú nhìn một đứa bé trai khác đang kêu a, a ở phía đối diện. Thằng bé kia cũng đang giơ bàn tay chỉ có hai ngón vui mừng phấn khởi vẫy về phía nó.
“Đi, Nhị Bảo,” Liêu Á Phàm đẩy lưng thằng bé kia một cái, “Đến đằng kia chơi đi.”
Nhị Bảo quay một vòng tại chỗ nhưng không đi, nó vẫy tay tiếp về phía thằng bé bên lan can, miệng kêu a, a.
Thằng bé nhận bánh từ tay Liêu Á Phàm, miệng hỏi: “Nó muốn làm gì đấy ạ?”
“Ha ha, muốn chơi oẳn tù tì với em đấy.” Liêu Á Phàm lại đẩy lưng Nhị Bảo, “Đừng để ý đến nó, ăn đi, nguội hết rồi này.”
Thằng bé cẩn thận cắn một miếng bánh, tiếp đó nó ăn từng miếng to.
“Có ngon không?”
“Ngon ạ.” Thằng bé mồm đầy bánh, lúng búng trả lời.
“Ha ha, có gì mà ngon, chỉ là bánh bao rau thôi.” Liêu Á Phàm cười, “Ăn chậm thôi, không nghẹn đấy.”
Nhị Bảo thấy có đồ ăn, vội vàng nhào đến thò tay ra. Thằng bé có vẻ lúng túng nhìn nó, sau khi hiểu ý liền cho nó một cái bánh bao. Nhị Bảo tay chỉ có hai ngón nên không cầm được, để rơi cái bánh xuống đất. Nó bực tức kêu ầm lên a, a, hai tay vồ lấy cái bánh dính đầy đất, nhét ngay vào mồm. Liêu Á Phàm vội giằng lấy, suýt nữa thì bị nó cắn vào tay.
Thằng bé cười hà hà, “Đừng vội, đừng vội, ăn xong tôi lại cho cái nữa.”
Hai đứa bé vừa ăn bánh bao vừa nhìn nhau cười, sau đó cùng mút tay, giống như hai con vật bé nhỏ hiền lành. Liêu Á Phàm đứng giữa chúng, bỗng nhiên cảm thấy mình thật vĩ đại.
Ăn bánh xong, Nhị Bảo không còn hứng thú chơi oẳn tù tì nữa, nó lắc la lắc lư đi về sân chơi. Thằng bé lau tay vào vạt áo, rồi thò vào lục lọi trong chiếc cặp bẩn thỉu, đồ vật trong cặp theo đó rơi cả xuống đất.
Liêu Á Phàm theo bản năng cúi xuống nhặt. Vừa cầm lên tay cô đã ngẩn người ra, một tập tiền một trăm tệ, phải đến hơn một nghìn tệ.
“Sao em lại có nhiều tiền thế?” Cô cúi xuống, “Lấy tiền của bố mẹ phải không?”
Thằng bé lôi trong cặp ra một lon cô-ca, mở nắp uống một ngụm lớn, rồi ợ một cái thật dài.
“Không phải đâu, bố em cho em đấy, đó là tiền ăn của em tuần này.”
Liêu Á Phàm bỗng trầm xuống, cô nhìn xấp tiền trong tay, cẩn thận đút vào túi áo thằng bé.
“Đừng để mất.” Cô không yên tâm ấn ấn vào túi áo thằng bé, “Sao nhiều tiền thế!”
“Không có gì.” Thằng bé đưa lon cô-ca đến trước mặt Liêu Á Phàm: “Chị uống đi.”
“Chị không uống, em uống đi.” Liêu Á Phàm cười, “Uống xong đưa cho chị cái vỏ lon là được rồi.”
“Chị cần cái này để làm gì?” Thằng bé thấy lạ, hỏi.
“Có thể bán lấy tiền.” Liêu Á Phàm vỗ đầu nó, “Em không biết à?”
Thằng bé nghĩ một lúc, “Chị thiếu tiền à?”
“Không.” Liêu Á Phàm đứng dậy, “Không thiếu.” Thằng bé nhìn biểu hiện bỗng nhiên buồn rầu của Liêu Á Phàm, nó đặt lon cô-ca xuống đất, lấy tập tiền ở trong túi áo ra, cầm một tập đưa vào tay Liêu Á Phàm.
“Cho chị này!”
“Em làm gì thế?” Liêu Á Phàm cuống cuồng kêu lên, như phải bỏng. “Mau cầm về, mau cầm về.”
“Cho chị mà!” Thằng bé cố tình nhét tiền vào tay Liêu Á Phàm, hai người giằng co như vận động viên đấu vật, cuối cùng Liêu Á Phàm phải hạ giọng nói: “Nếu em cứ thế này, chị sẽ giận đấy.”
Thằng bé lúc đó mới thôi, nó nhét đại mớ tiền vào túi áo, rồi cầm lon cô ca lặng lẽ tiếp tục uống.
Liêu Á Phàm thấy nhẹ cả người, tiện tay nhặt cái khuyên mở nắp lon cô-ca thằng bé vừa vứt dưới đất lên, đeo vào ngón tay.
“Em xem, có giống chiếc nhẫn không?” Cô xòe ngón tay ra, cánh tay giơ thẳng, nheo mắt nhìn cái vòng kim loại mơ hồ trên tay.
“Không phải nhẫn.”
“Chị hỏi em giống hay không, chứ không hỏi em có phải hay không phải đâu.” Liêu Á Phàm trách móc. “Chị đương nhiên biết là không phải rồi. Em đúng là một thằng nhóc đáng ghét.”
Thằng bé có vẻ hơi căng thẳng, vội nói thêm một câu: “Không giống!”
Liêu Á Phàm vừa thở dài vừa cười, “Em á.” Cô véo mũi thằng bé một cái, “Cũng không biết nịnh một chút để cho chị vui.”
Lúc đó, có tiếng chị Triệu ở trong bếp vọng ra: “Á Phàm, Á Phàm…”
“Dạ!” Liêu Á Phàm vội đáp lời, quay lại nói với thằng bé, “Chị phải làm việc rồi, em cũng nên về sớm đi.”
Thằng bé vội vàng đưa cái vỏ lon cô-ca rỗng, Liêu Á Phàm đưa tay ra nhận, rồi lại nhìn nó cười để lộ hàm răng trắng bóng, “Cảm ơn em!”
Mặt thằng bé đỏ lên, nó cúi xuống nói nhỏ: “Không cần cảm ơn.”
Thầy Châu không thấy xuất hiện trong bữa cơm. Vắng tiếng cười nói ồn ào của thầy, không khí trở nên buồn tẻ. Bọn trẻ chẳng nói chẳng rằng, cúi đầu ăn, ăn xong, từng đứa một lần lượt đi ra. Chị Triệu và Liêu Á Phàm là những người ăn cuối cùng. Sau khi thu dọn xong bát đĩa, ai nấy bê một chậu quần áo đi giặt.
Người lớn gần đây tỏ ra rất kỳ cục. Chị Triệu càng ngày càng thích lẩm bẩm một mình ở trong phòng. Còn thầy Châu thì cả ngày chẳng nhìn thấy bóng dáng đâu, thỉnh thoảng nếu có nhìn thấy ông ở Thiên sứ Đường thì nếu không buồn bã đứng hút thuốc thì cũng ở trong phòng chị Triệu đứng ngẩn ra trước di ảnh đứa bé. Biểu hiện buồn rầu trầm mặc của hai người lớn khiến lũ trẻ im thin thít, đứa nào cũng chú ý cẩn thận, việc cười đùa thỏa thích gần như lại trở thành việc quá xa xỉ.
Sau khi giặt giũ xong, sau một ngày vất vả, chị Triệu còn không đứng thẳng người lên được nữa. Liêu Á Phàm tự giác đảm nhận việc phơi phóng.
Trời đã tối hẳn, nhưng còn lâu trăng mới lên. Khí trời đêm mùa thu càng về khuya càng lạnh, quần áo ướt tỏa ra mùi xà phòng thơm ngát. Liêu Á Phàm cố gắng rải quần áo ra, phơi chúng lên hàng dây thép trong sân. Những ngón tay do phải giặt giũ và ngâm lâu trong nước đã bắt đầu tê cóng.
“Này!”
Bên tai nghe có tiếng ai văng vẳng, Liêu Á Phàm dừng tay lại trên một tấm ga giường, lắng tai nghe, mấy giây sau, cô nhìn lên tầng 2, nhún vai, tiếp tục kéo phẳng những vết nhăn trên tấm ga.
“Này!” Lần này thì Liêu Á Phàm khẳng định mình không nghe nhầm. Cô chui qua tấm ga, nhìn ra ngoài hàng rào, một cái bóng nhỏ bé đang vẫy tay về phía cô.
Liêu Á Phàm rảo bước đi ra, cúi người xuống bên hàng rào.
“Sao em vẫn chưa về?”
Mặt thằng bé khuất trong bóng tối nhưng có thể cảm thấy nó đang rất phấn khởi. Liêu Á Phàm không hiểu ra sao cũng cười theo. “Thằng bé này, sao không mau về đi.”
Thằng bé không trả lời, nó luống cuống lục lọi trong túi áo, một lát sau nó cầm một vật đưa vào tay Liêu Á Phàm. Không đợi cô kịp hỏi đã quay người bỏ chạy mất.
Liêu Á Phàm chẳng hiểu gì, nhìn theo bóng thằng bé đang khuất dần trong bóng đêm, rồi mới nhớ đến cái vật đang cầm trong tay.
Đó là một cái hộp nhỏ mặt gấm, hình trái tim. Tim Liêu Á Phàm đập thình thịch. Cô mở hộp, những ngón tay run rẩy lấy từ trong hộp ra một chiếc nhẫn. Một cái nhẫn bằng bạch kim trên mặt khảm một viên kim cương nhỏ tỏa ánh sáng rực rỡ dưới ánh trăng.
Nhân viên xét nghiệm làm việc hết sức tỉ mỉ đã phát hiện một số lông tóc bên trong con gấu đồ chơi và thông qua đối chiếu DNA, bất ngờ phát hiện trong đó có mấy sợi không phải là của người chết.
“Điều này nói lên cái gì?” Biên Bình đặt tờ báo cáo xuống, rướn lông mày lên hỏi.
“Nó nói lên rằng trước khi nhét người chết vào bên trong con gấu đồ chơi đã có người chui vào bên trong nó.”
“Có thể trong quá trình sản xuất, tóc của công nhân rụng vào?”
“Nhất định không thể.” Phương Mộc nghĩ, “Nếu như là tóc của công nhân, sẽ lẫn vào những vật liệu nhét vào trong lòng con gấu đồ chơi và khi hung thủ móc rỗng ruột con gấu nó sẽ ra theo.”
Đối với nguồn tin này Biên Bình không phấn khởi lắm, ngôn từ cũng rất cẩn thận: “Ồ, có thể coi là một đầu mối, kiểm tra lại xem.”
Phương Mộc rất hiểu thái độ của Biên Bình, con gấu bông đồ chơi đã có người chui vào chỉ là một “khả năng”, chứ không phải là “tất nhiên”. Phương Mộc thì tin rằng có người đã chui vào bởi vì điều này rất phù hợp với dự đoán “Nghi thức” của anh. Con gấu đồ chơi đương nhiên phải là một vật cần thiết trong ý đồ của hung thủ. Nếu như giết người là một kết cục của một nghi thức, thế thì cái đạo cụ quan trọng này rất có khả năng có người chui vào trong quá trình tiến hành nghi lễ.
Một người có nhóm máu B.
Bệnh tình của Lỗ Húc đã có chuyển biến tốt, anh đã bắt đầu làm việc trở lại. Căn cứ tình trạng thần kinh của anh, đơn vị sắp xếp cho anh làm nội cần.
Khả năng khống chế bản thân của anh đã hồi phục, nhưng vẫn cự tuyệt tập bắn súng. Dương Cẩm Trình không đưa ra yêu cầu cao, trực tiếp loại bỏ kế hoạch này. Tiến vào giai đoạn ba của đợt điều trị - tổ chức lại hiện trường gây nên chấn thương tinh thần.
Tham dự lần chữa trị này có rất nhiều người, ngoài những đồng nghiệp trong phòng Nghiên cứu tâm lý tội phạm của Sở Công an, Phương Mộc bất ngờ gặp cả cảnh sát Đoạn của chi đội cảnh sát vũ trang đặc biệt.
“Chào cậu!” Cảnh sát Đoạn giơ tay, Phương Mộc nắm lấy, anh cảm thấy sức mạnh và những vết chai trong lòng bàn tay.
“Hôm nay anh cũng có nhiệm vụ ở đây à?” Phương Mộc nhớ đến khả năng bắn tỉa của cảnh sát Đoạn, “Chẳng phải là không tập bắn nữa hay sao?”
“Không, tôi chỉ đưa anh ta đến thôi.” Cảnh sát Đoạn chỉ vào một cảnh sát vũ trang giỏi. “Anh Vu đây là người hướng dẫn kỹ thuật xuất sắc nhất đội chúng tôi đấy.”
Tiểu Vu đứng dậy, bật ra một câu chào: “Chào thủ trưởng!”
Phương Mộc vội vàng đáp lễ, sau đó mới nhận thấy mình không mặc cảnh phục, nghĩ bụng, mình là thủ trưởng cái gì chứ.
Việc điều trị được bố trí tại một phòng luyện tập. Góc phòng đặt một chiếc máy Camera, quá trình điều trị có thể được nhìn thấy qua một máy giám sát ở một phòng khác.
“Tình hình bệnh tật của cảnh sát Lỗ Húc đã có nhiều chuyển biến nhưng chưa phục hoàn toàn.” Dương Cẩm Trình lật giở tập tài liệu trong tay, “Chúng tôi đã tiến hành theo dõi tình hình sau khi cậu này được bố trí công tác trở lại, phát hiện thấy Lỗ Húc kiên quyết từ chối lái các phương tiện giao thông, hàng ngày đi bộ đi làm. E rằng cậu ta là người tuân thủ luật giao thông nhất thành phố này. Kết quả điều tra cho thấy, cậu ta vẫn sợ các loại xe to nên hàng ngày đều đi làm sớm và rời khỏi đơn vị rất muộn. Tôi cảm thấy, cậu ta cố ý tránh những giờ cao điểm bởi vì dòng xe và tiếng còi vẫn gây cho cậu ta những áp lực rất lớn. Trong đơn vị, cậu ta hầu như không giao tiếp với mọi người, theo tôi được biết, cậu đã từ chối nghe điện thoại của bố mẹ ít nhất là ba lần trở lên.”
“Cậu ta còn chìm đắm trong day dứt đau khổ và xấu hổ.” Biên Bình gật đầu, “Xem ra cậu ta cho rằng mọi cảnh sát xung quanh mình đều đạt tiêu chuẩn, còn mình thì không.”
“Đúng.” Dương Cẩm Trình gấp tập tài liệu lại, “Cho nên phải giúp đỡ cậu ấy.”
Căn cứ theo kế hoạch của Dương Cẩm Trình, việc trị liệu hôm nay là tái hiện lại một vụ tai nạn giao thông. Do đó Sở Công an đã bố trí rất đầy đủ chi tiết. Phương Mộc bước vào phòng luyện tập, bất giác kinh ngạc bởi những gì đang bày ra trước mắt.
Những dụng cụ tập luyện như đệm mềm và bao cát đã được thu dọn đi, một mô hình mô tô bày ở khoảng trống giữa phòng, bức tường trước mặt là một màn hình lớn. Nhìn kỹ, mô hình xe mô tô thực ra là một xe điện đồ chơi loại to. Hình ảnh của đồ chơi này được chiếu lên trên màn hình.
Lỗ Húc và tất cả những người tham gia buổi trị liệu đều ngồi trong văn phòng của phòng luyện tập. Mọi người sau khi giới thiệu và nói chuyện với nhau một lúc, Dương Cẩm Trình thấy tinh thần Lỗ Húc có vẻ tương đối thoải mái đã đề nghị anh ra chọn diễn viên.
Phương Mộc biết rằng, cái này gọi là “kỹ thuật kính quan”, làm cho Lỗ Húc có thể đứng ngoài theo dõi mình, giống như đang nhìn chính mình trong gương. Kiểu tách rời góc nhìn thế này có thể làm cho Lỗ Húc không quá lo lắng căng thẳng khi xem lại vụ tai nạn.
Vai chính thực ra rất đơn giản chỉ gồm có: Người chỉ huy, nhân viên cứu hộ và Lỗ Húc. Dưới sự bố trí của Lỗ Húc, người chỉ huy do cảnh sát Đoạn đóng, nhân viên cứu hộ do bốn đồng nghiệp trong phòng Nghiên cứu tâm lý đóng, còn vai Lỗ Húc giao cho ai thì vẫn là một việc khó. Dương Cẩm Trình kiến nghị Tiểu Vu đóng vai Lỗ Húc.
“Tốt, thế thì tôi sẽ làm đạo diễn.” Dương Cẩm Trình để cho mọi người ai vào chỗ nấy sau đó dẫn Lỗ Húc, Biên Bình và Phương Mộc đến phòng Camera.
“Vì sao không để cho anh ta trực tiếp xem vở kịch tâm lý này ở phòng luyện tập?” Nhân lúc mọi người đang thay phục trang, Biên Bình hỏi nhỏ Dương Cẩm Trình.
“Như thế sẽ làm tăng áp lực đối với anh ta, chúng ta muốn anh ta dưới góc độ của một người quan sát hồi tưởng lại toàn bộ quá trình xảy ra tai nạn. Cho nên, chúng ta để cho anh ta một hoàn cảnh hết sức thoải mái.” Dương Cẩm Trình vỗ vài Phương Mộc lúc này đang giúp Tiểu Vu mặc cảnh phục, “Nhiệm vụ của anh là luôn ở cạnh Lỗ Húc, bởi vì anh có thể làm cho anh ta thấy thoải mái.”
Ẩn ý là: Lỗ Húc ở trước mặt Phương Mộc sẽ cảm thấy mình không đến nỗi quá tệ.
Phương Mộc có ý không vui, một mặt anh cảm thấy không phục, mặt khác, anh cảm thấy mình hình như là một công cụ, nhưng nghĩ một lát, Phương Mộc quyết định sẽ làm theo.
Buổi biểu diễn bắt đầu.
Tiểu Vu trong bộ đồ cảnh phục tương đối giống Lỗ Húc. Lỗ Húc cũng nhịn không được cất tiếng cười ha ha. Còn lại, cả buổi buổi diễn thực ra là một trò chơi. Tiểu Vu ngồi trên chiếc mô tô mô hình, lượn vòng vèo theo quá trình chơi. Lỗ Húc từ chỗ mỉm cười đến lúc phải chăm chú. Dương Cẩm Trình luôn luôn theo dõi cậu ta. Sau khi xác định Lỗ Húc đã đắm chìm trong vở kịch tâm lý, ông ta cắt chuyển hình ảnh trên máy Camera.
Hình ảnh trò chơi xuất hiện trên màn hình, sự mô phỏng với kỹ thuật cao khiến cho mặt đường trò chơi không khác gì mặt đường thật. Tiểu Vu, hay nói cách khác là Lỗ Húc theo lệnh của người chỉ huy cưỡi trên xe mô tô thoắt ẩn thoắt hiện, tránh xe cộ và người đi lại trên đường. Lỗ Húc càng ngày càng hăng say, hơi thở hổn hà hổn hển, rồi lại tiếp tục uốn lượn thân mình sang trái, sang phải theo trò chơi trên màn hình.
Hình ảnh trên màn hình lại một lần nữa chuyển đến phòng tập, Lỗ Húc lúc đầu ngồi ngây ra, sau đó dần dần thoải mái. Đến lúc màn hình bất ngờ xuất hiện một chiếc xe tải lao qua ngã tư, chiếc mô tô lập tức tránh sang bên phải, nhưng do tránh không kịp nên đã đâm vào phía sau xe tải. Tiểu Vu kêu lên “a, a” một tiếng rồi ngã lăn ra khỏi xe mô tô…
Lỗ Húc theo bản năng bật ngửa ra đằng sau, sau đó đau khổ ôm lấy đầu.
Không ai nói gì, Camera lại một lần nữa chuyển về màn hình trò chơi, Phương Mộc chú ý thấy trên màn hình không xuất hiện dòng chữ “Game over”, vẫn là con đường có người xe đang đi lại ấy.
“Cảnh sát Lỗ,” Dương Cẩm Trình bưng một ly trà đến cho Lỗ Húc: “Cậu vẫn ổn chứ?”
Lỗ Húc cầm chén nước trên tay, thở ra một cách nặng nề, hạ giọng trả lời: “Tôi không sao!”
Dương Cẩm Trình ngồi bên cạnh anh ta thong thả nói: “Cảnh sát Lỗ, vừa nãy là toàn cảnh vụ tai nạn giao thông chúng tôi mô phỏng lại trên trò chơi, thời gian, tốc độ xe của cậu và thời điểm chiếc xe tải xuất hiện đều giống hệt như lúc xảy ra sự cố.”
Dương Cẩm Trình dừng lại một lát, “Tiểu Vu e rằng là cảnh sát có kỹ thuật lái xe xuất sắc nhất tôi từng gặp, nếu như tôi nhớ không nhầm thì cậu này đã đoạt giải quán quân trong cuộc đua mô tô của tổng đội cảnh sát vũ trang tỉnh nhà. Mặc dù như vậy nhưng trong tình cảnh lúc bấy giờ cũng khó tránh khỏi để xảy ra sự cố.”
Lỗ Húc ngẩng đầu lên, nhìn Dương Cẩm Trình một cái.
“Đúng thế!” Dương Cẩm Trình gật đầu, “Tai nạn xảy ra không phải do sai lầm của cậu. Bất luận là ai, lúc ấy cũng khó thoát được. Còn theo tôi, cậu đã làm rất tốt vì đã bảo toàn được tính mạng.”
“Ông đang an ủi tôi!” Lỗ Húc hạ giọng nói, nhưng sắc mặt đã khá lên rất nhiều.
“Ha ha, biết ngay cậu sẽ nói thế mà.” Dương Cẩm Trình cười, cầm micrô, “Tiểu Vu, chuẩn bị xong chưa?”
Hình ảnh lại chuyển sang phòng luyện tập, Tiểu Vu đã ngồi lại lên xe mô tô, trò chơi bắt đầu.
“Chúng ta làm lại một lần nữa, cậu sẽ thấy không phải tôi an ủi cậu mà đấy là sự thật.”
Thời gian như quay trở lại, một màn biểu diễn lại xuất hiện, chỉ có điều lần này hình ảnh trò chơi hơi dài hơn. Lỗ Húc không lắc lư người theo tiến trình của trò chơi nữa mà tập trung vào màn hình. Thời khắc mà hai xe đâm vào nhau lướt qua, Lỗ Húc thở ra nhẹ nhàng, hơi gật đầu.
Dương Cẩm Trình lại chuyển hình ảnh đến phòng luyện tập, “Đấy, cậu xem, tôi có lừa cậu đâu.”
Lỗ Húc cười khó khăn.
Tiểu Vu nằm co ro trên phản, bên cạnh người có thêm khẩu súng ngắn cứ như là nó bị rơi từ khi Tiểu Vu chào đời. Khẩu súng tập trung sự chú ý của Lỗ Húc. Cậu ghé sát vào màn hình, chăm chú nhìn nó, như muốn làm rõ xem ai đã lấy nó đi.
Những bóng áo trắng vây bọc xung quanh, những nhân viên cứu hộ vội vàng khiêng cáng chạy đi chạy lại, bọn họ khiêng Tiểu Vu “đang bất tỉnh nhân sự” đưa lên cáng, một tay của cậu ta thõng xuống, lắc la lắc lư theo động tác của những người khiêng cáng. Đúng lúc đó, một vai diễn không ai ngờ tới xuất hiện.
Đó là một ông già đầu đã bạc quá nửa, ông ta đi như chạy đến bên cáng, vừa vội vàng thò tay ra vơi “Lỗ Húc” đang nằm trên cáng vừa kêu ầm lên: “Tiểu Húc, Tiểu Húc, nhất định phải kiên cường lên, nhất định phải sống đấy nhé…”
Tất cả mọi người có mặt đều tập trung chú ý đến ông già, Lỗ Húc kêu lên thất thanh: “Bố?”
Bốn nhân viên cứu hộ và bố Lỗ Húc khiêng Lỗ Húc từ cửa cạnh của phòng luyện tập chạy ra ngoài. Căn phòng vừa mới bận bịu túi bụi giờ trống rỗng không một bóng người.
Lỗ Húc bắt đầu khóc thút thít, Dương Cẩm Trình liếc nhìn về phía Phương Mộc, Phương Mộc hiểu ý đưa tay ra vỗ nhẹ lên vai Lỗ Húc.
Đợi cho Lỗ Húc từ từ bình tĩnh trở lại, Dương Cẩm Trình mỉm cười nói: “Cậu nhìn xem khẩu súng đâu rồi?”
Không chỉ có Lỗ Húc, ánh mắt của tất cả mọi người lại một lần nữa nhìn lên màn hình. Không thấy khẩu súng đâu nữa!
“Súng đâu?” Lỗ Húc vội vàng quay lại hỏi Dương Cẩm Trình.
“Có ai biết không?” Dương Cẩm Trình nhún vai tỏ ra không liên quan, “Không có ai chú ý đến khẩu súng, mọi người chỉ cần cậu sống thôi, đó là thành công lớn nhất rồi, đó là xứng đáng với bố mẹ cậu và đội trưởng của cậu rồi.”
“Đúng đấy con ạ. Chỉ cần con còn sống, con sẽ là niềm tự hào của ba mẹ…”
Cửa mở, bố mẹ Lỗ Húc nước mắt lưng tròng đi vào, phía sau họ là đội trưởng của Lỗ Húc.
“Cậu Lỗ, đấy không phải lỗi của cậu!” Đội trưởng vành mắt đã hơi đỏ đưa tay ra, đập đập lên người Lỗ Húc, khi cậu đang ôm hôn bố mẹ, “Chỉ cần cậu không làm sao thì việc tìm ra khẩu súng chỉ là chuyện một sớm một chiều thôi.”
Dương Cẩm Trình nhẹ nhàng đứng dậy, vẫy tay ra hiệu cho Biên Bình và Phương Mộc ra theo, rồi tiện tay khép cửa lại.
Tất cả diễn viên đều tập trung ở hàng lang, nhìn thấy Dương Cẩm Trình, mọi người lặng đi. Bỗng nhiên cảnh sát Đoạn vỗ tay, thế rồi tiếng vỗ tay vang lên khắp hành lang.
“Ông giỏi quá, tiến sĩ Dương ạ.” Tiểu Vu nắm chặt tay Dương Cẩm Trình, “Không ngờ buổi trị liệu lại hiệu quả thế!”
Dương Cẩm Trình mỉm cười, đặt ngón tay trỏ lên môi, đồng thời quay người lại cánh cửa phía sau gật gật đầu.
“Cậu cũng rất giỏi, Tiểu Vu ạ!” Dương Cẩm Trình vỗ vỗ vào tay Tiểu Vu, “Sau này khi giải ngũ, cậu có thể nghiên cứu để trở thành một minh tinh màn bạc được đấy.”
Mọi người cũng cười, lúc này cửa phòng Giám sát mở ra.
Lỗ Húc cũng bố mẹ và người đội trưởng đi ra, cậu ta vừa lau nước mắt vừa giơ tay về phía Dương Cẩm Trình.
“Cảm ơn bác sĩ Dương.” Lỗ Húc nắm chặt tay Dương Cẩm Trình, lắc đi lắc lại mãi, “Ông đã làm cho tôi đủ dũng cảm đối mặt lại với sự cố đó.”
“Được giúp đỡ cậu là vinh hạnh của tôi.”
“Tôi có một yêu cầu,” Lỗ Húc bỗng trở nên kiên quyết, “Lần sau, tôi muốn được tự diễn vai của mình.”
Dương Cẩm Trình nhìn chăm chăm vào Lỗ Húc một lúc, rồi thong thả nói: “Cảnh sát Lỗ, cậu sẽ là niềm tự hào của tất cả những người ở đây!”
Chương 18: Lạc hướng và chứng minh
Vụ án giết người ở mê cung không tiến triển, vụ giết người ở siêu thị Phú Sĩ Mã cũng giậm chân tại chỗ, mặc dù hồ sơ của hai vụ án này đã xếp thành hai chồng dày, nhưng vẫn không cung cấp được một đầu mối có giá trị nào cho việc phá án.
Tháng 11 năm 2004, Bộ Công an đã triệu tập hội nghị toàn quốc về công tác điều tra các vụ án mạng tại Nam Kinh, Giang Tô. Tại hội nghị này đã đưa ra tư tưởng chỉ đạo: “Vụ án mạng bắt buộc phải phá”, và quán triệt chấp hành tại tất cả cơ quan công an trong toàn quốc. Sở Công an tỉnh cũng hết sức coi trọng hai vụ án mạng xảy ra trong thời gian trước đây và liệt kê vào các vụ án cần phải đôn đốc. Nhưng về mặt ảnh hưởng xã hội, việc cấp bách trước mắt là phải nhanh chóng bắt cho được đối tượng vượt ngục La Gia Hải về quy án.
Cơ quan cảnh sát đồng thời với việc tiếp tục các hoạt động vây bắt La Gia Hải tại thành phố C cũng yêu cầu sự hợp tác chặt chẽ với cảnh sát của thành phố J, bố mẹ cậu ta cũng ở thành phố J, do đó, cảnh sát đã tiến hành giám sát nghiêm ngặt nhà bố mẹ La Gia Hải, nhưng từ khi xảy ra vụ án đến nay, không hề thấy tăm hơi La Gia Hải, cũng không thấy cậu ta lộ diện hay liên lạc với gia đình.
Thái Vĩ thông báo sơ bộ kết quả hợp tác cho Phương Mộc. Vấn đề cuối cùng có vẻ khó nói chính là gần đây các vụ trọng án ở thành phố J cũng xảy ra liên tiếp, lực lượng cảnh sát thiếu trầm trọng, cho nên việc phối hợp điều tra vụ án La Gia Hải chỉ có thể dựa vào cơ quan công an cơ sở, nhưng nếu có tin tức gì sẽ lập tức thông báo cho Phương Mộc ngay.
Đặt điện thoại xuống, tinh thần của Phương Mộc có vẻ hơi ủ dột nhưng chưa đến nỗi thất vọng, chán nản. Thực ra thì điều này cũng nằm trong tính toán, La Gia Hải cho dù ở bất cứ đâu cũng không ngốc đến mức trốn về nhà.
Xét đến sai lầm của Phương Mộc trong vụ án, cấp trên đã ủy nhiệm cho Biên Bình làm một báo cáo phân tích La Gia Hải. Trong báo cáo, Biên Bình tiếp nhận kiến nghị của Phương Mộc đối với việc La Gia Hải vẫn còn ở trong thành phố và khả năng phát triển của vụ án. Phương Mộc rất cảm kích trước việc làm của Biên Bình vì anh biết Biên Bình vẫn tin tưởng ở anh.
Mặc dù trong việc truy bắt La Gia Hải bản thân đã tìm hết cách để phát huy tác dụng nhưng Phương Mộc vẫn dứt khoát đem hết sức mình tập trung vào hai vụ án giết người gần đây. Anh hy vọng có thể nhanh chóng phá được hai vụ án này. Tạm thời không nói đến vấn đề chức nghiệp của cảnh sát, thứ nhất là vì danh dự bản thân, thứ hai là để báo đáp Biên Bình.
Biên Bình không tán thành với phương pháp của Phương Mộc. Anh nói với Phương Mộc, phá án là công việc của cảnh sát, nhưng không vì thế mà để tình cảm cá nhân chi phối sẽ làm cho bản thân rơi vào những sự phiền toái không cần thiết.
“Bảo vệ người bị hại là chức trách của chúng ta, bảo vệ những quyền lợi hợp pháp khác củ người phạm tội cũng không có gì sai. Nhưng nên có mức độ.” Biên Bình tỏ ra nghiêm khắc, anh chỉ vào Phương Mộc, “Sai lầm lớn nhất của cậu là dễ để tình cảm chi phối công việc. Những sai lầm tương tự tốt nhất là không nên tái phạm, đặc biệt là việc cậu dùng thân mình đỡ đạn cho tội phạm!”
Đây là lần đầu tiên Biên Bình chính thức nói chuyện với Phương Mộc về vấn đề này. Tình cảm của anh ấy với Phương Mộc không nói cũng hiểu. Nhưng Phương Mộc thấy ý kiến của Biên Bình và Thái Vĩ đều giống nhau: Anh là người rất dễ dàng để tình cảm cá nhân xen lẫn vào trong công việc.
Phương Mộc rất hiểu mình là con người như thế, nếu không đã không có những cơn ác mộng kéo dài hơn hai năm; không có cuộc đối diện độc lập với con quỷ hút máu; không có việc bắn thẳng vào đầu Tôn Phổ ở dưới hầm ngầm; cũng không có việc vì La Gia Hải mà suýt bị người của mình bắn chết…
Phương Mộc buồn rầu suy nghĩ, có lẽ mình không hợp với nghề cảnh sát.
Nhưng cho dù là hợp hay không hợp thì những công việc trước mắt vẫn cần phải làm cho tốt. Việc này không cho phép chọn lựa, Phương Mộc đóng cửa, giam mình lại, suốt cả ngày nghiên cứu hồ sơ về hai vụ án giết người.
Hướng suy nghĩ để phá vụ án giết người dưới mê cung còn được cho là rõ ràng một chút, về cơ bản là giết người báo thù. Chỉ vì quan hệ xã hội của nạn nhân Tưởng Bái Nghiêu nên rất khó phát hiện động cơ gây án của hung thủ. Cảnh sát lúc đầu nghi ngờ thủ phạm là Đàm Kỳ nhưng đã chứng minh được thời gian ngoại phạm của anh ta. Còn điều tra qua những quan hệ thân thiết thì Đàm Kỳ rất ít bạn, những quan hệ tiếp xúc chủ yếu là đồng nghiệp ở công ty quảng cáo. Thời gian rảnh rỗi Đàm Kỳ chỉ thích ở nhà chơi điện tử, dùng một câu theo mốt bây giờ để nói, đây là người đàn ông chuẩn mực luôn có mặt ở nhà. Do đó, tạm thời không thể chứng minh Đàm Kỳ là đồng phạm với bọn người kia được. Ánh mắt của Phương Mộc dừng lại hơi lâu trên bức ảnh chụp hiện trường. Có lẽ, do có duyên với ánh sáng khi chụp nên bức ảnh hơi mang tính chất của trang sơn dầu. Trong mê cung dưới lòng đất tối tăm chật hẹp, nạn nhân nằm sấp trông như vô tội. Cảnh này khiến Phương Mộc nhớ đến những tác phẩm hội họa thời văn hóa phục hưng ở châu Âu của các họa sĩ nổi danh lấy đề tài từ những câu chuyện tôn giáo.
Đúng, cảm giác đây là một nghi thức.
Phương Mộc không thể giải thoát mình ra khỏi cái cảm giác này. Nạn nhân trước khi chết đã bị bắt trói và bị cho điện giật nhiều lần. Từ kết quả khám nghiệm cho thấy quá trình chết của nạn nhân tương đối dài, những tia điện lấp lánh, cơ thể co giật, tiếng kêu thẳm thiết yếu dần, không nghi ngờ gì nữa chính là lúc cao trào nhất của cái nghi thức tà ác này. Còn việc bỏ xác ở mê cung lại là kết cục hoàn mỹ nhất của nghi thức. Nhìn thi thể của nạn nhân, Phương Mộc cảm thấy như mình đang đứng bên cạnh nạn nhân, hai bên là những bóng đen lặng lẽ đứng trang nghiêm, khuôn mặt họ trông rất mơ hồ, nhưng hơi thở đều đều lại như đang vang lên ngay bên tai. Phương Mộc thậm chí cảm thấy họ đang rất an lành vì đã được thỏa nguyện, còn dưới chân của thi thể đó không chỉ là những nạn nhân, mà còn là những tế phẩm của nghi thức vừa kết thúc.
Từ cổ chí kim, bất cứ nghi thức nào cũng đều là một loại tượng trưng tinh thần, thế thì nghi thức này rốt cuộc tượng trưng cho cái gì?
Địa điểm bỏ xác là ở chính giữa mê cung, bất luận là tiến lên hay lùi lại, đều cách hai cửa ra vào một khoảng bằng nhau, cho nên, chỗ đó thực ra là nơi sâu nhất của mê cung. Nếu như nói mê cung mang đến cho người ta một cảm giác lạc hướng, thế thì trong nhận thức nơi đây sẽ là nơi sâu thẳm nhất.
Cái cảm giác lạc hướng ở nơi sâu nhất là cảm giác của hung thủ cảm thấy hay là hắn muốn để cho nạn nhân cảm thấy, hoặc là cả hai?
Nếu như hung thủ đã trải qua cảm giác này một cách sâu sắc, đồng thời cũng muốn cho nạn nhân được nếm trải mùi vị của nó, thế thì mùi vị của việc báo thù này rất đậm.
Tượng trưng của nghi thức dần dần hiện rõ: Phục thù.
Lúc vừa tan tầm, Phương Mộc phát hiện thấy điện thoại di động của mình hết pin, anh đặt tạm nó xuống bên cạnh tập hồ sơ, rồi về ký túc xá dành cho người độc thân lấy xạc.
Khi vừa mới tham gia công tác, để dễ quản lý và tập trung, cơ quan cấp cho mỗi người độc thân một phòng ký túc. Bất kể Phương Mộc là người ở thành phố hay là được mời đến công tác một thời gian. Nói là để thuận tiện cho công việc nhưng thực ra là vì anh không muốn về nhà. Bố mẹ Phương Mộc không đồng ý cho anh làm cảnh sát, do đó, đêm trước khi tốt nghiệp đã to tiếng một trận.
Vừa mở cửa, Phương Mộc ngẩn người ra, buổi sáng căn phòng còn bừa bộn lung tung bây giờ đã được dọn dẹp gọn gàng. Sách vở lẫn tạp chí bừa bộn ở trên giường được xếp lên giá sách, tấm ga đến một tháng không thay và cái chăn thì biến đi đâu mất. Đôi giày đánh bóng rổ đang rỏ nước trên bệ cửa sổ. Ánh mắt của Phương Mộc dừng lại ở một cái túi vải quen thuộc trên bàn, mẹ đến rồi.
“Tránh ra!” Phương Mộc còn đang ngẩn ngơ thì nghe thấy một giọng nói mệt mỏi vang lên ngay sau lưng, sau đó, một đôi tay đẩy vào vai anh.
Mẹ anh nét mặt nghiêm nghị, tay bưng một chậu quần áo ướt đi vào. Bà để chậu quần áo xuống cuối giường, ngồi xuống thở dốc.
“Quần áo của ai đấy ạ?” Phương Mộc chân tay luống cuống đi tìm ấm chén, đun nước, cười làm lành, hỏi.
“Của ai à? Mẹ mua đấy!” Bà xắn tay áo lên, nói giọng không vui: “Con ở đây ngay cả một cái chậu để giặt quần áo cũng không có, không biết bình thường thì giặt quần áo thế nào?”
“Mang ra hiệu giặt.”
“Thế họ giặt có sạch không?” Bà mẹ không nhẫn nhịn, “Con xem này, cái chăn của con thành ra màu gì rồi?”
Phương Mộc kéo một cái ghế, ngồi xuống trước mặt mẹ, cười nhăn nhở, “Mẹ à, sao hôm nay mẹ lại rảnh rỗi thế?”
“Ừ, con tưởng mẹ muốn đến sao?” Bà mẹ chẩu môi ra, “Con thử tính xem, đã bao lâu con chưa về nhà rồi?”
Phương Mộc hơi ngượng, cúi đầu không trả lời. Căn phòng bỗng chốc trầm hẳn xuống, hồi lâu, mẹ Phương Mộc thở dài, nói: “Con đã chọn con đường này, mẹ và bố con đành phải nghe theo. Nhưng con không được lâu như thế không về thăm nhà, đến cả điện thoại cũng ít gọi. Bố mẹ sợ ảnh hưởng đến công tác của con, cũng không dám liên hệ nhiều. Nhưng con biết đấy, mẹ và bố con đều rất nhớ con.”
“Con biết ạ.” Phương Mộc cầm tay mẹ, cọ cọ vào lòng bàn tay mình.
“Nhất định phải chú ý an toàn, biết không?” Mẹ Phương Mộc xoa đầu anh, “Hai sự việc ở thành phố này và thành phố J đã làm bố mẹ sợ chết khiếp rồi, nếu lại xảy ra nữa, coi như con giết mẹ đấy.”
“Không sao đâu ạ.” Phương Mộc cười hề hề, “Con có đi bắt tội phạm giết người đâu mà.”
“Con…” Bà mẹ sầm mặt xuống, “Mẹ không phải không biết, hàng ngày giao lưu với con là những hạng người nào!”
“Con sẽ cẩn thận, mẹ cứ yên tâm!”
Bà mẹ lườm Phương Mộc một cái, vỗ vỗ vào cái túi vải, nói: “Trong này là quần áo mùa thu, trời lạnh thì nhớ mặc vào.” Sau đó bà rút trong túi ra một tập tiền bỏ lên bàn.
“Mẹ làm gì vậy?” Phương Mộc vội vàng cầm tập tiền lên, “Mẹ cầm về đi, con có thiếu tiền đâu.”
“Mày khách sáo với cả mẹ à?” Bà đánh một cái vào tay Phương Mộc, “Đừng có giả vờ giàu có với mẹ, con có tiền hay không mẹ còn không biết sao?” Bà nói chắc nịch, nhét tiền xuống dưới gối, miệng lẩm bẩm, “Cũng không biết rồi cái thằng mất nết này đem tiền tiêu lung tung ở đâu nữa.”
Phương Mộc gãi đầu, “Thế để con mời bố mẹ ăn cơm.”
“Ăn cái gì mà ăn? Tiêu tiền bậy bạ, hơn nữa, cầm tiền của mẹ rồi mời mẹ đi ăn cơm, mày coi mẹ là đồ ngốc à?”
“Ha ha, hay bố mẹ mua chút gì ngon mang về nhà ăn.”
“Được!” Cuối cùng bà mẹ cũng mỉm cười đồng ý, rồi hôn một cái lên mặt Phương Mộc, “Đây mới là thằng con trai ngoan của tôi!”
Ăn một bữa cơm thịnh soạn tại nhà, đánh một giấc ngon lành trên chiếc giường quen thuộc, hôm sau tinh thần của Phương Mộc phấn chấn hẳn lên, tinh lực cũng đầy sung mãn, tư duy tự nhiên cũng sáng ra nhiều.
Nếu như nói tượng trưng nghi thức ở mê cung là báo thù, thế thì nghi thức ở siêu thị Phú Sĩ Mã tượng trưng cho cái gì?
Vẫn đề tập trung ở hai điểm: Một là ở siêu thị; hai là con gấu bông đồ chơi.
Từ những kết quả thu thập được như kế hoạch tỉ mỉ, chu đáo của hung thủ, không quản hiểm nguy để hoàn thành kế hoạch bỏ xác, mặc dù việc bỏ xác khó hơn nhiều so với việc khống chế, giết hại nạn nhân. Rất hiển nhiên, việc bỏ xác ở siêu thị là rất quan trọng với hung thủ, là một tình tiết không thể thiếu của quá trình phạm tội. Thế thì vì sao hung thủ lại phải mang xác nạn nhân vào siêu thị? Vì sao phải treo xác nạn nhân lên tường?
Phô bày.
Đặc điểm lớn nhất của siêu thị là lượng người ra vào mật độ quá đông, nếu như muốn hành vi phạm tội của mình được phơi bày ở một nơi đông người thì siêu thị chính là nơi phù hợp nhất.
Nếu như mục đích hung thủ chọn nơi bỏ xác nạn nhân ở siêu thị là vì muốn hành vi phạm tội của mình được thể hiện ở trình độ cao nhất, thế thì ít nhất cũng chứng minh được một vấn đề: Hung thủ hoặc kẻ thù ác có một trạng thái tâm lý dị thường. Bởi vì anh ta hoặc cô ta coi việc phơi bày xác nạn nhân quan trọng hơn nhiều so với việc giết hại nạn nhân.
Giống như mọi nghi thức vốn có, ý nghĩa của hình thức là phải thể hiện được bản chất của nội dung.
Thế thì việc phơi bày như thế có thể mang đến cho hung thủ một sự thỏa mãn tâm lý nào?
Giễu cợt sự bất tài của cảnh sát hay là sự huênh hoang, khoe khoang bản thân?
Một nhà mạng sau khi công bố sản phẩm của mình sẽ phải luôn quan tâm xem sản phẩm của mình sẽ được truy cập và phản hồi như thế nào.
Một đạo diễn điện ảnh, sau khi phim của mình được chiếu sẽ đích thân đến rạp ngồi quan sát phản ứng của khán giả.
Mỗi tác giả đều hy vọng sẽ có nhiều người biết đến tác phẩm của mình. Nếu như tác phẩm được nhiều người khen ngợi thì người đắc ý nhất chính là tác giả, bởi vì nó chứng tỏ được bản thân họ.
Nếu hung thủ cũng có một trạng thái tâm lý giống như vậy, thế thì hắn muốn chứng minh cái gì?
Đáp án nhiều khả năng sẽ ở con gấu bông đồ chơi kia.
Phương Mộc chăm chú xem lại bức ảnh hiện trường, trong đầu vẫn không ngừng nhớ lại cảm giác lần đầu tiên đến hiện trường. Ngoài cảm giác sâu sắc đây là một nghi thức thì cái ấn tượng nhất đối với anh chính là con gấu bông đồ chơi kia. Nó không cho anh một cảm nhận mãnh liệt mà mang đến cho anh một sự bất ngờ. Anh không thể tưởng tượng một con gấu đồ chơi lại có thể khiến cho hung thủ có được sự khẳng định cái Tôi mãnh liệt như vậy.
Bỗng nhiên Phương Mộc nhận thấy mình đã bỏ qua một đầu mối rõ ràng nhất.
Nếu như con gấu bông đồ chơi kia là vật để hung thủ biểu đạt yêu cầu nội tâm thì hắn ta không nhất thiết phải moi rỗng ruột con gấu bông. Mục đích moi ruột con gấu bông là để nhét người chết vào bên trong giống như mặc quần áo điều đó chứng tỏ: Người mặc bộ da của con gấu bông mới chính là yêu cầu của hung thủ.
Phương Mộc nhớ đến câu nói của trưởng khoa Sái, người mặc bộ da của con gấu đồ chơi chính là hình tượng của người làm nghề quảng cáo!
Giết chết người quảng cáo mặc bộ da của con gấu đồ chơi mới là mục đích chính của hung thủ! Nhưng vấn đề vẫn chưa được giải quyết, hung thủ quyết tâm làm như thế để chứng minh cái gì? Cho dù hắn ta muốn chứng mình cái gì đi nữa thì vẫn xác định được một vấn đề đó chính là trạng thái tâm lý của hung thủ đã đạt đến mức cực kỳ mãnh liệt, đến độ không thể dừng lại được. Để kích thích hành động đó không ngoài hai khả năng: Một là tự cứu; hai là phục thù. Cuối cùng thì đó là khả năng nào?
Phương Mộc thấy rất phấn khởi, hai vụ án càng ngày càng có ý nghĩa đây.
Nghĩ đến đây, Phương Mộc bất giác ngừng cười, tự mình liên hệ hai vụ án với nhau. Trực giác cũng rất tốt, dự đoán cũng rất đúng, chí ít bây giờ có hai vấn đề cần phải xác minh:
Thứ nhất: Nạn nhân Tưởng Bái Nghiêu trong vụ án mạng dưới mê cung có bao giờ xúc phạm đến thân thể học sinh của mình để đến mức gây thù chuốc oán không; Thứ 2: Nạn nhân Thân Bảo Cường trong vụ án mạng ở siêu thị Phú Sĩ Mã đã bao giờ làm nghề quảng cáo, nếu như đã làm nghề quảng cáo thì trong thời gian đó có xảy ra sự cố nào không?
0 comments :
Post a Comment